Cái gì đến thì sẽ đến, một buổi chiều bọn lính lệnh chúng tôi tập họp hết tất cả mọi người ngồi chờ ở giữa sân trại. Lát sau thì ông Aleck đến cùng một nhóm khá đông người và ông báo tin vào sáng ngày mốt, chúng tôi sẽ phải chuyển xuống cảng Johore. Một sĩ quan hải quân đứng gần bên ông Aleck, tiếp lời: " Một ghe to hơn chiếc cũ, đầy đủ gas chạy máy cùng lương thực, nước uống và trước khi khởi hành, quý vị có thể kiểm tra tình trạng máy móc. Tôi bảo đảm ghe rất tốt, có cả một máy bơm nước nữa ".
Nghe rõ những lời thông báo của họ, dù đã tiên liệu từ trước nhưng cả đám chúng tôi vẫn thẫn thờ trong im lặng.
- Thưa ông, tụi tui phải rời trại và sau đó sẽ ra khơi trở lại bằng chiếc ghe mới từ cảng Johore? Tám Kiệt thay mặt cả đám, hỏi cho chắc ăn.
Ông Aleck gật đầu xác nhận, rồi nói:
- Để an toàn, chúng tôi sẽ giúp quý vị bằng cách kéo chiếc ghe từ cảng ra biển lớn, sau đó quý vị sẽ tự tiếp tục chuyến đi.
- Ông bảo tự tiếp tục chạy ghe, vậy chúng tôi sẽ đi đâu trong cái đại dương bao la? Chúng tôi trốn nạn Cộng Sản, tìm tự do, ghé vào đây rồi bây giờ ông lại bảo chúng tôi tiếp tục đi... đi nữa. Các ông có biết Cộng Sản như thế nào không? Sao các ông không hiểu cho hoàn cảnh, còn đẩy chúng tôi đi tiếp? Ông Phát to giọng bực tức, chất vấn.
Thấy vậy, hết ông Aleck rồi đến các sĩ quan khác thay nhau trả lời rằng họ biết chúng tôi đào thoát để tìm tự do, đã ghé vào cảng Kelang và vì vậy nên được cho tạm dung ở đây. Hiện thời vì Bidong và Sungei Besi quá đông người, không thể nhận thêm nên họ phải kiếm một ghe mới khác, mong chúng tôi thông cảm. Điều quan trọng khi xuống ghe đó, chúng tôi sẽ không được quay trở lại
- Johore gần
- Tùy quý vị nhưng từ lâu rồi thì
- Vậy thì chúng tôi sẽ tiếp tục đi đâu để gặp trại tị nạn? Ông Phát lập lại câu hỏi.
- Tốt nhất thì quý vị nên hướng đến
Sau đó, các nhân viên hội thiện Hồng Nguyệt tản ra, lăng xăng khám sức khoẻ chúng tôi rồi cho mỗi người gói nylon nhỏ gồm trái cây tươi và bánh ngọt. Ai nấy thắc mắc về lời nói của viên sĩ quan, ghe mới to hơn và tốt hơn cá lớn nhưng sao lại phải mặc áo phao cứu sinh.
Ngày kế, lính gác lệnh đám nam giới chia từng toán nhỏ đi quét dọn các nơi cùng hai nhà lều, lấp hố rác và vào rừng khuân các thân cây khô về chất thành đống lớn để đốt lửa trại. Chốc lát xong việc, lính gác cho phép chúng tôi tự do đi tắm suối lần cuối, ai ai cũng một cảm giác nôn nao về chuyến sẽ đi vào sáng sớm ngày mai. Ngày qua đi thật nhanh rồi khi trời sẩm tối, thêm ba gã lính khác đi xe Jeep đến nhập bọn chung. Lửa trại bùng lên, chúng tôi ngồi xen kẽ với lính gác thành một vòng tròn khá rộng chung quanh. Gã lính Daniel chơi guitar một điệu tango vui mở màn, có người thổi sáo miệng phụ họa theo. Một thanh niên trong chúng tôi dùng hai chiếc muỗng làm đôi chập chõa hòa âm với gã lính đang gõ lên cái mũ sắt nhà binh thay cho trống. Cây guitar được chuyền tay lần lượt cho các người khác biểu diễn. Hát nhạc ngoại quốc chán thì đổi qua nhạc sến rồi ca cải lương. Và không ai ngờ, bằng cây guitar mà ông Phát lại gẩy được nhiều điệu cải lương réo rắt chung với người ca. Cải lương có nhiều bài bản bài lý cùng các loại hơi xuân hơi oán rất khó ca ngay cả với người miền
Tiếng kèn và ánh đèn từ hai chiếc xe bus đến thật sớm khi trời còn chưa sáng rõ đã đánh thức cả trại dậy. Vì chuẩn bị sẵn nên mọi người ùa ra làm vệ sinh cá nhân rồi điểm tâm qua loa nhanh chóng, sau đó lên ngồi kín trên hai chiếc xe. Khi kiểm danh đã đủ 135 người thì hai chiếc xe bus bắt đầu từ từ lăn bánh ra khỏi trại, Daniel cùng các gã lính khác đứng cạnh gần cổng ra vào vẫy tay từ giã chúng tôi.
Mỗi chiếc xe bus đều có hai gã lính thủ súng trường M 16 đứng trấn sát ngay cạnh cửa lên xuống ở bên trong. Xe chạy chầm chậm, lắc lư trên con đường gập ghềnh hoặc tránh các vũng nước nằm ngay giữa lộ đất đỏ. Trời sáng dần, tôi thấy rõ cây rừng đan chặt chỉ cách vệ đường vài bước chân và rừng trải dài bạt ngàn khi xe bus qua những chỗ thấp như thung lũng hoặc đồi cao. Văng vẳng tiếng chim hót râm ran hòa với tiếng hộc tiếng hú của muông thú chào đón đầu ngày mới. Ra khỏi khu rừng thì hai chiếc xe bus nhập vào một xa lộ rộng rãi, đầy xe để chạy về hướng
Rừng cao su ở đây, cây nào cũng có các rãnh cắt xiên bên thân và một chén nhỏ hứng mủ gài ngay dưới cùng của đường rãnh. Không biết thời xưa khi còn là thuộc địa của nước Anh thì đời sống người phu cạo mủ ở đây có giống như bên Việt
Chúng tôi nối nhau thành một hàng dọc tiến về phía trước nơi đám lính gác chờ sẵn với một đống áo phao cứu sinh mới toanh bỏ nằm dưới đất. Mỗi người được phát một chiếc áo phao cứu sinh này. Các gã lính chỉ dẫn cách thức luồn sợi dây choàng qua hai đùi phía dưới háng từng người để cố định vị trí cái áo phao luôn luôn dính chặt vào thân mình. Ở túi ngực áo phao, có một còi hơi để thổi khi cần đến và một bóng đèn pin nhỏ sẽ cháy chớp tắt khi cái chốt nắm được giật tung ra. Lần lượt giúp từng người chúng tôi mặc áo phao cứu sinh xong, một sĩ quan hải quân nói:
- Ai cũng cần biết cách sử dụng còi và đèn để phòng khi nổi dưới biển, gặp tàu cấp cứu chạy đến gần sẽ dễ dàng biết vị trí của quý vị.
Buộc mọi người phải mặc áo phao rồi chỉ dẫn cách dùng còi và đèn báo khi thân người đang nổi dưới biển đã làm chúng tôi phải nghĩ ngợi pha chút lo lắng. Sẵn có còi hơi trong tay, vài trẻ nít cứ vô tư thổi toe toe và tắt mở bóng đèn pin để vui đùa với nhau. Đồng hồ trên tay tôi đã hơn 8 giờ tối và bầu trời thì tối đen không một ánh sao. Chúng tôi chỉ cho nhau thấy các thân ghe đậu lố nhố dưới chân cầu xa xa mà không biết chiếc nào sẽ thay cá lớn trong tối nay? Chợt ông Thăng lách đến gần chỗ tôi đang đứng, miệng nói gấp:
- Anh Tám và cậu Thuận đâu rồi? Đi ra với tôi ngay, mấy người hải quân họ muốn mình xuống xem ghe bây giờ nè. Tiếng một người khác nói với theo: " Ê mấy ông! Nhớ kiểm tra máy ghe, máy bơm nước xem coi nó có chạy ngon lành không nha ".
Tám Kiệt, Thuận cùng các ông Thăng ông Phát theo chân ông Aleck cùng các sĩ quan hải quân tiến về phía những chiếc ghe đậu ở phía dưới bờ cảng. Họ đi xuống chiếc nào trong số ghe lớn, nhỏ đang nằm im lìm đó? Trong cái áo phao cứu sinh đồng một màu cam đỏ, chúng tôi bây giờ trông ai cũng giống như ai nếu không nhìn thấy mặt của nhau. Người lớn trong áo phao lớn, trẻ nhỏ trong áo phao nhỏ. Một mùi tanh cá, mùi mằn mặn của nước biển theo cơn gió thổi hắt lên bờ về phía đám chúng tôi đang đứng chờ tin. Lát nữa đây, chúng tôi sẽ phải tiếp tục cuộc hải hành mới, một cuộc hải hành tuy không muốn mà phải đi trong lo sợ. Tôi chợt run người vì sợ, tay tôi nổi chút da gà. Bên tôi, vài người nhìn mặt thấy rõ vẻ lo âu trong yên lặng. Cầu mong chuyến đi sẽ được suôn sẻ.
Tám Kiệt cùng Thuận, ông Thăng, ông Phát quay trở lại chung với nhóm người của ông Aleck. Thuận đi đầu mỉm cười và giơ ngón tay cái hướng lên trời với chúng tôi. " Ghe, máy cùng bơm nước thì tụi tui kiểm tra thấy chạy rất tốt. Anh Tám và cậu Thuận đã xem đi xem lại thật kỹ rồi ", tiếng ông Phát nói lớn cho cả đám nghe. Tám Kiệt tiếp lời:
- Dầu chạy ghe đã được họ bơm đầy còn sơ cua thêm vài can nhựa 30 lít nữa. Ghe nầy rộng hơn chiếc cũ, máy mạnh hơn nhưng không có hải bàn vì tầu hải quân họ kéo đi theo và sẽ chỉ hướng để mình chạy tiếp. Thực phẩm và nước ngọt có đầy đủ dưới ghe, tụi tui đã xem xét kỹ lưỡng.
Ông Aleck tiến đến, đứng đối mặt với cả đám chúng tôi rồi khoa tay buộc mọi người chú ý và im lặng. Ông chậm rãi nhắc lại những cam kết của Malaysia với Cao Ủy Tị Nạn LHQ khi nhận cho chúng tôi vào tạm trú nhưng do những khó khăn nội bộ nên buộc lòng họ phải sắp xếp để làm một chuyến hải hành mới. Rồi thay mặt bộ Nội Vụ, ông mong chúng tôi thông cảm và quả quyết chuyến đi tối nay sẽ tốt đẹp. Một sĩ quan hải quân khác, thông báo:
- Lát nữa đây, tôi sẽ chỉ huy chiếc tàu kéo ghe quý vị đi ra tới biển lớn. Thuyền trưởng, tài công bên quí vị nhớ phải giữ khoảng cách an toàn ở phía sau tàu hải quân. Bây giờ, xin mời quý vị xuống ghe, di chuyển trong trật tự và im lặng.
(còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét