Sau khi tảng lờ, im thin thít trước kỷ niệm 30 năm ngày Trung Quốc xâm lược Việt Nam (17-2-1979/09), đến một nén nhang thắp cho liệt sĩ trên các nghĩa trang dọc theo biên giới Việt –Trung cũng không có – ngày 23 tháng 2 vừa rồi , Nhà nước Việt Nam lại làm rùm beng “Lễ mừng công hoàn thành cắm mốc biên giới “ tổ chức trên đường biên giới giữa hai cột mốc 1116-1117, tại khu vực cửa khẩu Hữu Nghị tỉnh Lạng Sơn với nghi thức cấp Nhà nước.
Hoàn toàn không công bố sau khi cắm xong cột mốc Việt Nam
mất đi bao nhiêu ngàn kilômét lãnh thổ, ải Nam Quan ngày trước có còn, thác Bản
Giốc vì sao cắt cho Trung Quốc phần lớn ...chỉ thấy các nhà lãnh đạo Việt Nam
xoa tay hoan hỉ, coi đây là một “Thông điệp hữu nghị, hoà bình của hai nước
Viêt- Trung”.
Mặc dầu bị cấm đoán tên các phương tiện báo chí, phát thanh
, truyền hình, mặc dầu Hội nhà văn Việt Nam hèn nhát bưng tai nhắm mắt trước
hiểm hoạ Trung Quốc xâm lược, một số nhà văn Việt Nam vẫn bày tỏ thái độ vạch
mặt kẻ thù phương Bắc trên một số web site cả ở trong nước lẫn ngoài nước vào
dịp nổ ra cuộc xâm lược của Trung Quốc tháng Hai-1979:
Tổ Quốc
vệt nắng mỏng trước sân mái gà cục tác
con tôi ngủ trong nôi văng vẳng tiếng còi tàu
bữa cơm gia đình tôi trộn bắp trộn sắn bảy mươi phần trăm
mùa xuân những cơn bão hung hãn bất ngờ ập tới
con tôi ngủ trong nôi văng vẳng tiếng còi tàu
bữa cơm gia đình tôi trộn bắp trộn sắn bảy mươi phần trăm
mùa xuân những cơn bão hung hãn bất ngờ ập tới
trầm tĩnh như rừng kia như biển kia
Tổ Quốc tôi đứng lên trước bầy xâm lăng phương bắc
những dãy núi cong cánh cung những nỏ thần khủng khiếp
lại tung hàng loạt mũi tên xuyên ngực quân thù
Tổ Quốc tôi đứng lên trước bầy xâm lăng phương bắc
những dãy núi cong cánh cung những nỏ thần khủng khiếp
lại tung hàng loạt mũi tên xuyên ngực quân thù
ải Nam
Quan ngọn khói xưa Nguyễn Trãi nuốt nước mắt quay về
mười năm nằm gai nếm mật
hẽm Chi Lăng lầm lì sông Kỳ Cùng bốc cháy
pháo đã giăng từ ngàn vạn điểm cao
mười năm nằm gai nếm mật
hẽm Chi Lăng lầm lì sông Kỳ Cùng bốc cháy
pháo đã giăng từ ngàn vạn điểm cao
quân di chuyển những dòng sông chảy ngược
mây uy nghi Yên Tử thuở nào
còn in dáng Trần Nhân Tông mắt dõi về phương bắc
tính nước cờ ung dung trên cao
mây uy nghi Yên Tử thuở nào
còn in dáng Trần Nhân Tông mắt dõi về phương bắc
tính nước cờ ung dung trên cao
sông Kỳ Cùng những tảng đá lên hơi
đùa với mặt trời trong nước
tôi chỉ đến tắm một lần nhưng đó là Tổ Quốc
chảy lặng thầm suốt cuộc đời tôi
đùa với mặt trời trong nước
tôi chỉ đến tắm một lần nhưng đó là Tổ Quốc
chảy lặng thầm suốt cuộc đời tôi
những câu lượn câu sli đêm chợ Kỳ Lừa
chén rượu nồng thơm sắc màu thổ cẩm
vó ngựa gõ dòn lâng lâng sương khuya
chén rượu nồng thơm sắc màu thổ cẩm
vó ngựa gõ dòn lâng lâng sương khuya
khẩu súng chống tăng ghì chặt vào vai
anh xạ thủ H’Mông mười tám tuổi
khi lũ giặc đang điên cuồng lao tới
một chấm nhỏ trên bản đồ một chấm nhỏ thiêng liêng
anh xạ thủ H’Mông mười tám tuổi
khi lũ giặc đang điên cuồng lao tới
một chấm nhỏ trên bản đồ một chấm nhỏ thiêng liêng
phút người lính đứng bật lên cắm chặt chân vào đất
phút ấy, đất dưới chân anh là Tổ Quốc
quả đạn rời nòng trong chớp mắt
xe tăng cháy ngang đồi lũ giặc lùi xa
anh lính trẻ mỉm cười lau mồ hôi trên mặt
gương mặt dịu lành như Tổ Quốc chúng ta
xe tăng cháy ngang đồi lũ giặc lùi xa
anh lính trẻ mỉm cười lau mồ hôi trên mặt
gương mặt dịu lành như Tổ Quốc chúng ta
2-1979
Miệng nói
thơn thớt “đồng chí tốt, láng giềng tốt”
nhưng tay vẫn thò vào vùng đất, vùng biển Việt Nam .
Nhà thơ Nguyễn Đăng Minh vạch trần :
“Thôi đừng hảo lớ, hảo lờ
Đừng quên răng lạnh hững hờ với môi
Đất của ông, đất của tôi
Xin đừng lấn chiếm biển trời của nhau
Đừng quên răng lạnh hững hờ với môi
Đất của ông, đất của tôi
Xin đừng lấn chiếm biển trời của nhau
Ông đi đâu, ông về đâu
Thế giới phát biểu đổ đầu, ông sai
Xin đừng cậy sức độc tài
Mà đe mà doạ những ai yếu lòng
Thế giới phát biểu đổ đầu, ông sai
Xin đừng cậy sức độc tài
Mà đe mà doạ những ai yếu lòng
Đất này đã được trời đong
Ghi vào lịch sử tiên phong diệt thù...”
Ghi vào lịch sử tiên phong diệt thù...”
Khốn nạn
nhất là đài truyền hình Việt Nam, suốt ngày ra rả chuyện tầm phào, nhưng ngày
lễ kỷ niệm chiến thắng Đống Đa, Quang Trung đại phá quân Thanh thì đài ...lờ
tịt.
Nhà thơ Trần Nhương đã chửi vỗ mặt :
“Phim Tầu chiếu suốt 3 ngày tết
Giỗ trận Đông Đa đưa tin qua quýt
Hay ông sợ tàng hình ?
Hay ông sợ ma vương quỷ sứ ?
Sóng, tiền thuế của dân
Ông cho thuê, ông quảng cáo
Tiền ních túi ăn tiêu xả láng
Cái cần làm thì ông nói lảng
Ông là ai đâu phải của dân
Giỗ trận Đông Đa đưa tin qua quýt
Hay ông sợ tàng hình ?
Hay ông sợ ma vương quỷ sứ ?
Sóng, tiền thuế của dân
Ông cho thuê, ông quảng cáo
Tiền ních túi ăn tiêu xả láng
Cái cần làm thì ông nói lảng
Ông là ai đâu phải của dân
Đất nước đêm ngày lo lũ ngoại
xâm
Gặm từng mét giang sơn gấm vóc
Ông truyền hình hãy nói lời tim óc
Cùng nhân dân bảo vệ nước non này...”
Gặm từng mét giang sơn gấm vóc
Ông truyền hình hãy nói lời tim óc
Cùng nhân dân bảo vệ nước non này...”
Cũng nhà thơ Trần Nhương đã từng viết về chiến tranh chống
Trung Quốc :
Mặt
trời
Đợt thứ nhất
Pháo chúng bắn sang bảy trăm năm mươi quả
Đá không còn là đá
Cây không còn là cây
Triền đồi như ruộng mạ mới trang gặp trận mưa rào
Mười chiến sĩ chảy máu tai...
Đợt thứ hai
Pháo chúng bắn sang một nghìn hai trăm quả
Đá tan ra thành đất
Đất tan thành bụi trời
Cây bị nghiền như làm bột giấy
Triền đồi đất lỏng
Hai mươi chiến sĩ điếc đặc
Bụi đỏ táp đầy người.
Pháo chúng bắn sang một nghìn hai trăm quả
Đá tan ra thành đất
Đất tan thành bụi trời
Cây bị nghiền như làm bột giấy
Triền đồi đất lỏng
Hai mươi chiến sĩ điếc đặc
Bụi đỏ táp đầy người.
Đợt thứ ba
Đợt thứ tư
Không ai còn nghe pháo nữa
Chỉ còn thấy chớp lửa
Và sức ép liên hồi
Như trái núi đè lên ngực
Mọi người nhìn nhau
Lấy tay làm hiệu
Nhìn đôi môi mà đoán ra lời
Không thể nói gì
Không thể ra mệnh lệnh
Sự tinh khôn của lính
Tìm ra một cách thông tin
Lấy dây buộc vào thắt lưng!
Giật mạnh ấy là giặc đến.
Sau pháo bắn bộ binh giặc tràn lên
Kèn đê rúc liên hồi
Sao đỏ như tàn lửa rơi
Triền đồi bụi hoà vào bụi
Năm mươi mét
Ba mươi mét
Mười mét
Sợi dây căng ra suốt dọc chiến hào
Đạn đồng loạt quét vào lũ giặc
Sườn đồi quang đi loang lổ xác thù.
Đợt thứ tư
Không ai còn nghe pháo nữa
Chỉ còn thấy chớp lửa
Và sức ép liên hồi
Như trái núi đè lên ngực
Mọi người nhìn nhau
Lấy tay làm hiệu
Nhìn đôi môi mà đoán ra lời
Không thể nói gì
Không thể ra mệnh lệnh
Sự tinh khôn của lính
Tìm ra một cách thông tin
Lấy dây buộc vào thắt lưng!
Giật mạnh ấy là giặc đến.
Sau pháo bắn bộ binh giặc tràn lên
Kèn đê rúc liên hồi
Sao đỏ như tàn lửa rơi
Triền đồi bụi hoà vào bụi
Năm mươi mét
Ba mươi mét
Mười mét
Sợi dây căng ra suốt dọc chiến hào
Đạn đồng loạt quét vào lũ giặc
Sườn đồi quang đi loang lổ xác thù.
Hoàng hôn
Người lính tạm tháo những nai nịt quanh người
Tạm chút bỏ nỗi nhọc nhằn trận mạc
Tháo sợi dây ở thắt lưng ra
Níu mặt trời vào điểm tựa
Và ở đấy mặt trời không lặn nữa...
Người lính tạm tháo những nai nịt quanh người
Tạm chút bỏ nỗi nhọc nhằn trận mạc
Tháo sợi dây ở thắt lưng ra
Níu mặt trời vào điểm tựa
Và ở đấy mặt trời không lặn nữa...
Hà Tuyên, 1984.
Vào ngày giỗ các liệt sĩ chống Trung Quốc , ông viết :
Mẹ tôi nói:
Bố các con liệt sĩ Điện Biên
Anh các con liệt sĩ Khe Sanh Đường Chín
Em các con liệt sĩ Đồng Đăng xứ Lạng
Đều vì nước quên sinh
Đều vì con Hồng cháu Lạc
Sao các con lòng đen dạ bạc ?
Đứa chết ở Đồng Đăng chẳng nhắc đến bao giờ ?
Ba mươi năm rồi đó
Hay em nó chết chui ?
Hay em nó hy sinh không chính đáng ?
Lũ chúng mày mở mày mở mặt
Sống dư thừa nhờ cái chết bao người
Bố các con liệt sĩ Điện Biên
Anh các con liệt sĩ Khe Sanh Đường Chín
Em các con liệt sĩ Đồng Đăng xứ Lạng
Đều vì nước quên sinh
Đều vì con Hồng cháu Lạc
Sao các con lòng đen dạ bạc ?
Đứa chết ở Đồng Đăng chẳng nhắc đến bao giờ ?
Ba mươi năm rồi đó
Hay em nó chết chui ?
Hay em nó hy sinh không chính đáng ?
Lũ chúng mày mở mày mở mặt
Sống dư thừa nhờ cái chết bao người
Cả cái chết cũng
bất công đến thế
Lòng mẹ đau biết nhắm mắt sao đây !
Lòng mẹ đau biết nhắm mắt sao đây !
10-2-2009
Bình
độ 400 là một khu vực ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Sau đây là bài thơ của
một chiến sĩ vô danh viết ngay trên trận địa :
Bình độ 400
Đêm tháng Năm vào Bình độ Bốn Trăm
Đoàn xe trôi êm êm, tầm đại bác
Thuốc súng tanh, lá rừng kêu xào xạc
Chúng no máu rồi không cắn nữa đâu?
Đoàn xe trôi êm êm, tầm đại bác
Thuốc súng tanh, lá rừng kêu xào xạc
Chúng no máu rồi không cắn nữa đâu?
Lắc lư xe quan tài vượt về sau
Máu dỏ xuống đường cuốn vào cát bụi
Lại xe quan tài vượt lên lầm lũi
Tốp thương binh bê bết máu mặt, mày
Máu dỏ xuống đường cuốn vào cát bụi
Lại xe quan tài vượt lên lầm lũi
Tốp thương binh bê bết máu mặt, mày
Đám cướp kia Thánh, Phật dạy ăn chay
Chẳng kiêng gì ngày Rằm, mồng Một!
Đạn cày xới đất tơi trồng cây tốt
Tưới máu người cướp, giữ đất biên cương.
Chẳng kiêng gì ngày Rằm, mồng Một!
Đạn cày xới đất tơi trồng cây tốt
Tưới máu người cướp, giữ đất biên cương.
Tư lệnh Hoàng Đan trận này cầm quân
Ông bảo rằng: Sống, chết, thời, vận, số!
Cả Trung đoàn ào ào như thác lũ
Bình độ Bốn Trăm bình địa trận người.
Ông bảo rằng: Sống, chết, thời, vận, số!
Cả Trung đoàn ào ào như thác lũ
Bình độ Bốn Trăm bình địa trận người.
Những chàng trai sống, chết trận này
ơi!
Mưa đổ xuống ông Trời tuôn nước mắt
Ơn nhớ mãi thân người đi giữ đất
Người trở về ăn, sống, ở ra sao?
Mưa đổ xuống ông Trời tuôn nước mắt
Ơn nhớ mãi thân người đi giữ đất
Người trở về ăn, sống, ở ra sao?
Vào ngày kỷ niệm 30 năm chống
Trung Quốc xâm lược, trên mặt các báo không có một dòng nhắc tới. Lê Đức Dục đã
viết trên blog
của Bùi Thanh , nguyên Phó Tổng Biên Tập báo Tuổi Trẻ đã bị cách chức::
“Manchette”
báo và ngày 17-2
ga Hà Nội,
5 giờ 30 sáng 17 tháng 2
năm hai ngàn lẻ chín
tôi vội vã xuống tàu
tìm người bán báo dạo…
mấy chục măng sét báo xanh- tím- vàng -nâu
chẳng báo nào nhắc một dòng về biên giới
im như thể chưa hề biết tới
một sớm mai –giờ này này cách nay 30 năm
ở sân ga này hối hả những đoàn quân,
im và im
như chưa hề biết tới một bình minh
máu đã nhuộm thắm sắc đào sơn cước
giây phút này, 30 năm trước…
ôi Hà Nội , trái tim hồng cả nước
những huyết thư tuổi trẻ lên đường
cả Việt Nam rạo rực máu Lạc Hồng
máu cha ông truyền từ ngày “Sát Thát”
tất cả lên đường
nhằm biên cương phía Bắc!
ba mươi năm
Hà Nội sáng mai này
tôi cầm trên tay
những măng sét báo lặng câm
“Tuổi Trẻ” màu xanh
“Thanh Niên” màu tím
“Công an” màu nâu
“Mua bán” màu vàng
"Vedete" hôm nay
"Giá nhà đất thôi tăng"
"Đánh bạc on-lai"
"Chuẩn bị tăng giá điện"
Có măng sét báo nào hôm nay in màu đỏ hay không?
Chỉ cần một sắc đỏ
lặng im
vẫn cháy lòng tưởng nhớ
Khi chúng ta không dám nhắc thành lời!
Tờ báo cũ tháng trước rơi ra
Chạy tít đỏ
kỷ niệm cách mạng Cu Ba
Kỷ niệm chiếm trại lính Moncada
Lên án Israel ném bom Gaza
Aaaaaaa…
Hahaha…
Còn xương máu ông cha
Xương máu quân dân biên giới
Ba mươi năm không dám nhắc một dòng
Yêu hoà bình có nghĩa là im lặng!
Phải thế không?
Phải thế không?
(Ga Hà Nội 6h sáng 17-2-2009)
5 giờ 30 sáng 17 tháng 2
năm hai ngàn lẻ chín
tôi vội vã xuống tàu
tìm người bán báo dạo…
mấy chục măng sét báo xanh- tím- vàng -nâu
chẳng báo nào nhắc một dòng về biên giới
im như thể chưa hề biết tới
một sớm mai –giờ này này cách nay 30 năm
ở sân ga này hối hả những đoàn quân,
im và im
như chưa hề biết tới một bình minh
máu đã nhuộm thắm sắc đào sơn cước
giây phút này, 30 năm trước…
ôi Hà Nội , trái tim hồng cả nước
những huyết thư tuổi trẻ lên đường
cả Việt Nam rạo rực máu Lạc Hồng
máu cha ông truyền từ ngày “Sát Thát”
tất cả lên đường
nhằm biên cương phía Bắc!
ba mươi năm
Hà Nội sáng mai này
tôi cầm trên tay
những măng sét báo lặng câm
“Tuổi Trẻ” màu xanh
“Thanh Niên” màu tím
“Công an” màu nâu
“Mua bán” màu vàng
"Vedete" hôm nay
"Giá nhà đất thôi tăng"
"Đánh bạc on-lai"
"Chuẩn bị tăng giá điện"
Có măng sét báo nào hôm nay in màu đỏ hay không?
Chỉ cần một sắc đỏ
lặng im
vẫn cháy lòng tưởng nhớ
Khi chúng ta không dám nhắc thành lời!
Tờ báo cũ tháng trước rơi ra
Chạy tít đỏ
kỷ niệm cách mạng Cu Ba
Kỷ niệm chiếm trại lính Moncada
Lên án Israel ném bom Gaza
Aaaaaaa…
Hahaha…
Còn xương máu ông cha
Xương máu quân dân biên giới
Ba mươi năm không dám nhắc một dòng
Yêu hoà bình có nghĩa là im lặng!
Phải thế không?
Phải thế không?
(Ga Hà Nội 6h sáng 17-2-2009)
Cũng ngày
17 tháng 2 năm 2009, nhà văn Văn Chinh từ trong bệnh viện viết lên blog
về một sự thật trong cuộc chiến Trung Quốc xâm lược Việt Nam :
” Mình sẽ viết về sự bất ngờ của quốc phòng ngày 17.2.1979. Mình có tư liệu, người nhận tin Trung Quốc đánh Việt Nam
đầu tiên ở Hà Nội không phải là Bộ Tổng tham mưu, không phải là Tổng cục thông
tin tác chiến (phản gián quân đội) mà là một chuẩn uý, trung đội trưởng thông
tin sân bay Bạch Mai có tên là Nguyễn Hải Sinh, quê làng Nguyên Xá, Đông Hưng,
Thái Bình.
Nghĩa là, trong đêm 17.2.1979 không có ông
tướng tá nào ngồi trực máy cơ yếu. Vì sao? Vì đang say chiến thắng? Vì tin vào
tình đồng chí quốc tế vô sản? Tin vào “Láng giềng hữu nghị, đồng chí tốt, láng
giềng tốt”?
Vâng, vậy là
Nguyễn Hải Sinh trực (sĩ quan) đêm 17.2, ngẫu nhiên máy của
Sinh nhận được tín hiệu, cậu ấy vội vã báo cáo lên cấp trên, mãi gần sáng thông
tin mới đến được người cần đến. Thương thay, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng biết
bao nhiêu chiến sĩ trực
máy bộ đàm của địa phương, của các trung đoàn chủ lực cứ gào lên trong
máy nhưng không ai thưa, biết bao nhiêu người gục ngã bên máy bộ đàm?”
Cho dù ông Trưởng ban tuyên huấn Tô Như Rứa có bịt miệng báo chí, cho dù
Hội nhà văn với 700 hội viên và 5 vị Uỷ viên chấp hành vẫn bưng tai nhắm mắt,
im thin thít trước hiểm hoạ Trung Quốc xâm lược, thì đây đó cho dù thưa thớt
vẫn cất lên tiếng nói của lương tri dân tộc mỗi khi đất nước đứng trước hiểm
hoạ ngoai xâm.
24-2-09
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét