Nhớ lại “ thủa mơ làm văn sĩ”, gõ cửa nhà
văn Trần Dần, tầm sư học đạo, những mong
tiền bối chỉ giáo cho hậu sinh vài đường văn chương .
Vào hai
năm 71-72, Hà Nội khét lẹt bom Mỹ và những vụ truy bắt chữ nghĩa khiến nhà văn
nhà thơ, anh nào anh nấy chỉ có một cảm hứng duy nhất “đánh Mỹ là niềm vui bất tận”.
Vậy nhưng
hồi đó tôi chỉ quẩn quanh trong xóm nhỏ Hà Nội, nhung nhúc người thiếu đói . Không được sống trong khí thế hừng hực ngoài
chiến trường, cũng chẳng được biết mặt ngang mũi dọc Mỹ-Nguỵ ra sao, vậy cũng
học đòi cầm bút viết văn ? Thôi thì đành viết về những mảnh đời cần lao trong xóm . Một chị “đổi
thùng”, làm việc ở Công ty vệ sinh, đêm đêm vừa lén lút bán phân cho “con phe”,
vừa bán thân lấy tiền mua sữa cho con, đám “lính me” trong ngõ, ngày ngày chầu
chực cửa bệnh viện bán máu đong gạo giá cao…Tôi cứ hùng hục viết về những con
người như thế, xong bài nào, tôi đạp xe tới số 17 phố Trần Quốc Toản, trụ sở
báo Văn Nghệ, lén lút bỏ thùng thư để để rồi sáng sáng hăm hở chờ đợi những
“đứa con tinh thần” khai sinh trên mặt báo. Than ôi, hoàn cảnh tôi hồi đó, quan
niệm “văn chương là một trò chơi vô tăm tích” của bà Phạm thị Hoài là
rất phù hợp. Cứ mỗi sáng thứ bẩy tôi lại bỏ ra đồng rưỡi mua báo Văn Nghệ, lướt
nhanh trên các trang để rồi thấy những bài mình gửi đều “mất hút con mẹ hàng lươn” vào bồ rác các đồng chí biên tập, không
một tiếng vọng .
May mắn
thay, giữa lúc hoang mang, tôi gặp được quý nhơn phù trợ. Hôm đó đang xếp hàng
mua bia ở Cổ Tân, Hà Nội, một anh chàng mặc bludông da, điệu bộ lãng tử đi tới vỗ vai :” Tuấn ?”. Tôi giật
thót, sao anh chàng này biết tôi ?
Anh ta kéo tôi lại bàn đã có sẵn 4 ly bia hơi,
tự giới thiệu là nhà thơ kiêm hoạ sĩ Lê Huy Quang , sống tự do bằng nghề vẽ
truyền thần, dọc ngang Hà Nội trên chiếc Solex “mù” ( xe đã gỡ máy, đạp chân)
và quen biết rộng giới cầm bút. Cứu tinh đây rồi, tôi thầm reo lên, mời Quang về
nhà khoe mớ bản thảo đầu tay. Quang đọc vài trang rồi tấm tắc :
“ Cậu viết
có “chất” lắm, để tớ giới thiệu với một nhà văn, nhờ ông đọc, góp ý cho…”
Tôi mừng
rơn :
“ Vậy tốt
quá, nhà văn nào vậy ?”
Quang rít một hơi thuốc lá Sông Cầu, có vẻ nghĩ ngợi
rồi cao giọng :
“ Tớ sẽ
giới thiệu cho cậu nhà văn…Trần Dần…”
Tôi tròn
mắt, ông này trùm Nhân Văn-Giai Phẩm, bị Nhà nước “cấm bút” nhiều năm nay. Thấy tôi có vẻ lo ,
Quang trấn an:
“ Yên trí đi, ông này được Nhà nước “tha” rồi, cuốn “ Những người chân đất “ do Trần Dần dịch đấy.”
Tôi không
sợ “liên quan”, tôi chỉ muốn làm quen một người ở báo Văn Nghệ giúp in bài. Nhưng được gặp Trần Dần cũng tốt, ông
là “tay tổ” trong làng văn chương, nhất định sẽ góp nhiều ý kiến hay. Tôi mừng
rỡ :
“ Vậy hay
quá, cậu giới thiệu tớ đi…”
“ Được
rồi, để tớ sắp xếp…”
Quang khoe mình là đệ tử ruột của Trần Dần, bao
nhiêu thơ “bí mật” của ông, Quang . được đọc hết. Từ hôm đó, Quang với tôi trở
thành bạn thân, suốt ngày anh chàng phóng “Solex mù” đi đâu chẳng rõ, tối lại
về ngủ phòng tôi bàn chuyện văn chương. Tất nhiên là “đệ tử ruột” của Trần Dần,
Quang phải thở ra toàn giọng bất mãn . Anh chửi Hội nhà văn, chửi báo Văn Nghệ,
chửi cả chế độ. Một tối trời rét, tôi và Quang lên giường đắp chăn, hút thuốc , nói chuyện “ Tôn
Đản là chợ vua quan, Nhà Thờ là chợ trung gian nịnh thần” rồi bất ngờ anh
kêu lên :
“ Ước gì
ngủ một giấc, sáng mai…bạch kỳ đã bay đầy Hà Nội…”
Tôi sợ
toát mồ hôi hột, câu này mà tới tai công an, đi “ấp” là cái chắc. Thấy tôi
không mặn mà chuyện “lật đổ chế độ”, Quuang quay sang đọc thơ anh và cả thơ của
Trần Dần . Thơ Quang nghe cũng lạ lạ,
chẳng giống như thơ vẫn đăng dài dài trên báo Văn Nghệ, còn thơ của Trần Dần,
tôi nhớ lõm bõm :
“Tôi cô
đơn trời xanh cô đơn trời tía
Cô đơn
nắng đào cô đơn mưa tái nhợt đầu ô
Cô đơn
lang thang trong các đám đông
Trên
quảng trường nham nhở gió
Cô đơn
lòng ngõ rỗng trăng chênh…”
Hoặc :
“Bị gậy
bơ vơ trời không che đất không chở
Dù đêm
nghe gió quét gầm cầu
Chỉ vài
ánh sao lu làm củi lửa
Ta vẫn
khăng khăng yêu tổ quốc thật lòng”
Quang hỏi
:
“ Cậu thấy
thơ Trần Dần thế nào ?”
Tôi ngẫm
nghĩ rồi đáp thực lòng :
“ Thơ hay
đấy, nhưng con người ta trong lòng vẫn còn có tổ quốc thì sao gọi là cô đơn…”
Quang bật cười :
“ Thằng
này thế mà tinh. Thì cũng phải có tý ty yêu nước thì Trần Dần mới được yên chớ
“.
Rồi Quang đọc
cho tôi nghe gần hết cả bài thơ dài “Cổng tỉnh” ( sau này,Hội nhà văn VN trao
giải thưởng thơ 1997) và lại hỏi :
“ Mày thấy
sao ?”
Tôi cười
cười :
“ Cha này
bị “nó” hành thế mà cấm thấy oán trách “chế độ” câu nào, thơ toàn than thân
trách phận…”
Quang gật
gù :
“ Mày thế
mà tinh. Nhưng cũng phải thông cảm cho ông, chỉ “oán chế độ” một câu thôi là
tem phiếu phăng teo.”
Thế đấy,
Đảng và Nhà nước cứ nắm cái dạ dầy thì …thiên tài cũng chết. Phải chăng do né
hiện thực, không dám oán cái cùm, chỉ đi
tìm “âm điệu cho chữ” sau này đã đẻ ra “công nghệ Trần Dần” chăng ? Sáng hôm
sau, trước khi dắt cái “Solex mù” ra khỏi nhà tôi, Quang báo tin mừng :
“ Tao đã
hẹn Trần Dần, trưa thứ bảy tao sẽ đưa mày tới …”
Tôi mừng
rỡ :
“ Vậy phải
kiếm cái gì làm lễ ra mắt chớ ?”
Q. nghĩ
một tý rồi gật đầu :
“ Ong ấy
đang cần một cái loa kim nghe tin tức. “
Ngày đó ở
Hà Nội, phương tiện truyền thông đại chúng chủ yếu là cái “loa kim” nối với đài
truyền thanh Hà Nội vừa nghe tin tức chiến thắng hai miền Nam Bắc, vừa nghe báo
động máy bay. Radio còn là của quý hiếm và muốn dùng phải có giấy phép của Sở
văn hoá Hà Nội sau khi đã viết giấy cam đoan không nghe đài địch. Trưa thứ bảy,
y hẹn, tôi ra chợ Giời bỏ ra 20 đồng mua cả loa lẫn dây rồi cùng đi với Q. tới
nhà Trần Dần. Đó là một căn nhà hẹp, trong ngõ, gần hồ Halais. Nhà văn bị “cấm
bút” không khác lắm so với tôi hình dung, một ông già hom hem, ngoài 60, áo bông bạc phếch, mặt bơ phờ , lạnh lạnh và
có vẻ “cảnh giác” gã thanh niên là tôi leo trèo lên cột mắc giây kéo xuống loa.
“Đây là đài truyền thanh Hà Nội…Đây là đài truyền thanh Hà Nội…”, khi
tiếng loa vang lên, mặt Trần Dần dịu xuống rồi bất ngờ ông run bắn lên, mặt
giật giật liên hồi làm bà vợ trong buồng phải chạy ra đặt tay lên vai ông , van
vỉ :
“ Thôi ông
ơi, tôi đã bảo mà, bình tĩnh lại…bình tĩnh lại…”
Quang nhìn tôi ra hiệu rút lui, tôi đánh liều để lại
trên bàn hai cái truyện ngắn đầu tay ưng ý nhất. Cả một tuần dài dằng dặc, hồi
hộp, lo lắng rồi cũng trôi qua, tôi lại tới Trần Dần để nghe nhận xét hai đứa
con đầu lòng . Hôm nay nom ông có vẻ khoẻ khoắn hơn bữa trước, trò chuyện bâng
quơ, thỉnh thoảng lại nhìn ra ngoài cửa. Sau cùng, cái giây phút chờ đợi nhất
cũng đã đến, Trần Dần mở ngắn kéo đưa lại tôi hai truyện ngắn tôi đặt tên là “Trong thung sâu “ và “ Lính me” nói dõng dạc :
“ Từ khoá
cái này là…”sâu”. Từ khoá cái kia là….me…”
Có vậy
thôi, rồi ông im lặng. Tôi về nhà nghĩ nát óc không hiểu ông nhà văn nói vậy ngụ
ý gì ? Thì tất nhiên “sâu” và “me” là hai từ trong tên truyện
ngắn của tôi rồi. Nhưng nó hay dở ra làm sao, nên sửa thế nào ? Tôi hỏi Quang,
hắn phì cười :
“ Mày viết
bôi bác chế độ thế thì bố ông ấy cũng không dám có ý kiến gì. Với cả ông ấy mới
vớ được cuốn “Ký hiệu học” bằng tiếng
Pháp ở Thư viện Quốc gia, đang nghiền kỹ lắm…”
Thì ra là
vậy, thì ra nhà văn Trần Dần đã ứng dụng “ký
hiệu học” để tìm trong hai “văn bản” của tôi được hai cái từ khoá ấy. Từ đó
tôi không còn mơ tưởng mang “sáng tác” tới nhờ đàn anh đọc nữa. Hai truyện ngắn
đó tôi xếp ngăn kéo và mấy tháng sau mở ra đã .. không cánh mà bay. Tôi không
có ý ngờ vực nhà thơ kiêm hoạ sĩ , cho dù gần 10 năm sau tôi nghe tin anh đã vào Đảng, vào biên chế Nhà nước , được đi
nước ngoài và leo lên tới chức Phó Giám đốc. Sông sâu còn có kẻ dò, biết đâu…,
anh được “phân công” tiếp cận những cây bút “có vấn đề” như tôi và cả Trần Dần
nữa ? Có một thời những cây bút “ngoài luồng” được chăm sóc kỹ càng thế đó.
Năm ông
Nguyễn Văn Linh cởi trói, tôi có vinh dự được mời cơm thân mật 3 nhà thơ thời
danh : Trần Dần, Dương Tường và Hoàng Hưng. Tất nhiên trong bữa ăn mọi người
chỉ bàn về văn chương. Cuối bữa Trần Dần gật gù :
“ Thơ
Hoàng Hưng cũng…được đấy, nhưng cậu để…mất bóng nhiều quá…”
Oi thôi,
tôi tự nghĩ mà chẳng dám nói ra, thơ là “tiếng
nói con tim” chứ có phải đá banh đâu mà lo mất bóng. Cơm xong, tiễn Trần
Dần ra cửa, tôi rụt rè :
“ Cuốn “ Đi về nơi hoang dã” của em đưa anh chiều
qua, anh đã đọc cho em chương nào chưa ?’
Trần Dần
im lặng rồi như chợt nhớ ra :
“ Đọc rồi,
đọc hết rồi, cũng là một thứ…phải đạo ấy mà…”
Tôi mang
bộ mặt ỉu xìu quay trở vào, vợ tôi gắt :
“ Anh việc
gì phải buồn. Cả tối qua ông ấy đi chơi với Dương Tường , đã sờ tới sách của
anh lúc nào …”
Tôi chợt
nhớ tới hai cái “từ khoá” ngày trước, phận mình là dân học nghề, đàn anh phán
sao chịu vậy chứ còn biết làm sao ?
6-1-04
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét