Một dạo , trên một số diễn
đàn xôn xao quanh Tập truyện ngắn “ Bóng
đè” của Đỗ Hoàng Diệu, một cây bút nữ “hậu hiện đại “mới xuất hiện.
Do sự kiểm soát gắt gao về mặt tư tưởng trong chế độ toàn trị của Đảng,
do những tấm gương trừng phạt tàn nhẫn
rơi xuống đầu nhóm Nhân văn Giai Phẩm ; do bản tính
khiếp nhược của các thế hệ cầm bút và
sau cùng mồi ngon bổng lộc đã mua rẻ không ít linh hồn các tài năng – tính từ
ngày thành lập nước , văn học Việt Nam mang một căn bệnh trầm kha là lảng tránh
hiện thực, rất sợ viết sự thật , từ đó
sản sinh ra một thứ văn chương tào lao, văn chương xi rô,
vô thưởng vô phạt . Văn học cách mạng – chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội
một thời được kéo lên tột đỉnh vinh quang để rồi những cơn bão “thời gian” đã làm
tung toé đi hết cũng vì mang căn bệnh đó.
Sau 1975, ở Saigòn các mầm non văn nghệ vốn là con em chế độ cũ lại càng
khiếp hãi “các biện pháp quản lý “ mà các
nh văn miền Bắc đang gánh chịu, nên xác định ngay “một lối đi dưới chân mình” – đó là tránh xa hiện thực, tuyệt đối
không động tới những cấm kỵ ( tabou) và thế là mấy em hè nhau viết một thứ văn
chương ngòn ngọt, văn chương phòng the, văn chương “thanh
niên xung phong” - tạo thành một đội ngũ
các nhà văn hạng 2 như Lý Lan, Nguyễn Đông Thức, Đoàn Thạch Biền, Từ Kế Tường ….Trong khi đó, ở miền Bắc các nhà văn Nhân văn- Giai phẩm bị quản lý
quá chặt chẽ, khiếp hãi hình phạt , bị cô lập khỏi đời sống nên đã hướng ngòi bút vào những cuộc thí nghiệm chữ nghĩa (
laboratoires des mots), tự biến mình thành những “phu chữ”, tìm tòi “ngôn ngữ nghệ thuật mới” - từ đó ra đời một “
công nghệ sáng tác Trần Dần” với đặc trưng là “ xiếc chữ và tránh xa thực tại”.
Bởi vậy cái còn lại của nhóm Nhân văn – Giai phẩm là ý nghĩa chính trị của một cuộc “nổi dậy”
của trí thức đòi quyền tự do sáng tác chứ không phải những tác phẩm văn học
chứa đựng những khát vọng tự do của họ.
Sau chiến tranh, các nhà văn
chính thống cũng được giảm bớt yêu cầu viết về chủ nghĩa anh hùng cách mạng ,
nếu muốn, họ có thể mô tả cái “đời thường “nhưng vẫn cấm kỵ “sự thật”. Tuy
nhiên nếu đa số các nhà văn vẫn viết trong khuôn khổ “truyện ngắn báo Văn Nghệ”
thì một số cây bút ở Hà Nội “võ vẽ” tiếng tây, có thể vào thư viện đọc lõm bõm
Apollinaire, Prevert, Saint John Perse…cộng với “công nghệ Trần Dần” đã cho ra
đời một thứ thơ “đèm đẹp”, hay hay, xinh xắn như những hòn giả sơn. Chẳng hạn :
“ Một góc phố êtn là hò hẹn
Một nỗi buồn tên là không
tên…”
Hoặc :
“ Em đi ròng ròng…anatomie…”
(Dương
Tường)
“ Am ảnh anh từ ảnh em”
(
L Huy Quang)
Cái thứ thơ “ em rất đây mà em ở
đâu “ (Lê Đạt) này Đảng không cấm và cũng không khuyến khích , chính vì không
có sân khấu trình diễn” nên phát triển
không mạnh lắm. Những sáng tác của Dương Tường, Hoàng Hưng, Phan Đan, Lê Huy
Quang…mặc dù “vô thường vô phạt” nhưng vẫn khó lọt được vào báo Văn Nghệ nên
vẫn chỉ đọc thù tạc trong những cuộc gặp gỡ “bỏ túi” hay lan truyền trong sổ
tay của các em gái văn khoa.
Sang thời tin học, kỹ thuật photocopy trở nên quá dễ dàng để có thể nhân
bản mà truyền tay, các trang web nằm ngoài kiểm soát của nhà nước mở ra nhan
nhản. Vậy là đã có “đầu ra” (output) cho các thứ thơ văn “bàng thống” vốn không
lọt được vào cửa báo Văn Nghệ. Phong
trào sáng tác thơ văn “phi quốc doanh”
nhờ vậy trở nên rầm rộ. Thơ trong nước được đăng như bươm bướm, được ca ngợi
chót vót chín tầng mây trên các trang web Tạp chí Thơ, tiền vệ, talawas…nhất là
từ khi các thi sĩ tìm tới một chân trời mới : vấn đề dục tính hay nôm na là chuyện thân xác và giường chiếu”.
Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư… ở Hà Nội , nhóm Mở Miệng ở Sàigon rầm rộ và kín đặc trên các web với các “sáng
tác phẩm” klhông cần viết tắt khi nói tới bộ phận sinh dục của con người. Chẳng
hạn, mới đây nhất là :
“Nếu bạn uống rượu ở quán Thị Nghè
với thịt chó quá xỉn đến mức không thể dụ thằng nhỏ dậy để xóc lọ[lem] hoặc để
mấy em gái loe xoe thổi kèn ..” ( Lý Đợi)
Hoặc :
“Một con cặc tầm thường,
nó giữ. Theo cách cha ông dạy bảo vệ, nâng niu-không gì sai sót /nó gồng mình
chịu trận dù muốn một phát/ huy xứng đáng cho cặc tính của mình”. (Bùi Chát ).
Trong các nhà thơ “C..” “L...” này thỉnh thoảng cũng có vài thi sĩ muốn
“mó dế ngựa” bằng cách cài đặt vào giữa những câu thơ vài
câu chửi cộng sản, chửi chính quyền mà tiêu biểu là Nguyễn Quốc Chánh. Kỹ thuật này thực ra không có gì mới , đã
xuất hiện từ thời Nhân văn –Giai phẩm có tên là ”kỹ thuật gài mìn”.
Các nhà thơ đề xướng làn cách tân nghệ thuật bằng “sinh thực khí” như
vậy, các nhà văn thì sao ? Tất nhiên cái gì phải tới rồi sẽ tới . Mặc dầu có
muộn mằn hơn, trên Hợp lưu đã xuất hiện truyện ngắn “Bóng đè” của Đỗ Hoàng Diệu và lập tức nó được các trang web hải
ngoại vỗ tay rầm rầm. Bởi lẽ giống như một thứ Nguyễn Quốc
Chánh trong văn xuôi, Đỗ Hoàng Diệu cũng mô tả những cuộc mây mưa nồng, c…l…chi
li và nồng nhiệt không thua gì nhóm Mở
Miệng , hơn thế nữa còn cài đặt những chi tiết mà chắc chắn đồng chí tuyên huấn
đọc thấy sẽ phải đập bàn chửi thề.
Tháng 8-2005, Đỗ Hoàng Diệu đã tập hợp 8 truyện ngắn
đầu tay để in thành một tập sách dy 170 trang mang tựa “ Bóng đè” tại Nhà xuất bản Đà Nẵng và sau khi sách ra nó được các
bậc chưởng lão “nhiệt liệt chào mừng”.
Nhà văn lâu nay chuyển hệ sang viết …phê bình Nguyên Ngọc bốc thơm :
” Và cũng có lẽ một trong những
dấu hiệu đáng tin cậy để nhận ra một tài năng văn học là đọc họ ta cảm thấy cứ
như bằng trực cảm, bằng một thứ ăng ten riêng , dường như họ nhận ra được và truyền đến cho chúng ta những
nghiền ngẫm sâu thẳm về con người , về xã hội, về đất nước thậm chí về số phận dân
tộc mà chính họ về luận lý cũng khong nói ra cho được. Tôi cho rằng ta có thể chờ đợi ở Đỗ
Hoàng Diệu một tài năng như vậy…”
Ghê gớm chưa, còn hơn cả thời ông nhà văn “nâng bi” Nguyễn Huy Thiệp.
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên cũng không chịu kém trong lạm phát ngôn từ :
” Bóng đè, cái truyện đứng tên
chung cả tập là rất tiêu biểu. Nó đầy tượng trưng, đầy ám ảnh. Nó là cả một
thời đại, một lịch sử , một thân phận lớn….Đỗ Hoàng Diệu đã tự mở cho mình một
đường riêng vào văn chương…”
Ong “ngoại đạo” của văn chương, hoạ sĩ Trịnh Cung mới đây cũng nhảy vào
khen tán loạn :
”Bóng đè” của chị đột
ngột xuất hiện và gây sửng sốt người đọc Việt Nam Sự táo bạo của một nhà văn nữ
chưa đến tuổi 30 khi đề cập đến vấn đề tính dục khiến nhiều người shock nặng.
Chị rất được đánh giá cao về văn phong cũng như ý tưởng dữ dội về việc nhìn lại
qu khứ nhằm từ bỏ những gi trị ảo, những ám ảnh trói buộc đeo đẳng từ thế hệ
này sang thế hệ khác khiến những người trẻ không thể thoát ra và đi về tương
lai.”
Còn nhà giáo Phạm Toàn – bút danh Châu Diên, mấy năm
nay được “làm mới” bởi xuất hiện đều đều trên talawas thì nâng Đỗ Hoàng Diệu
lên thành một thứ “Quyền lực của một cô gái
” ngang hàng Sagan và Vệ Tuệ .
Tuy nhiên cũng có những tiếng “kèn ngược”, không kể ý kiến “sặc mi quản
lý” như của Phúc Linh trong bài “ Về cái gọi là văn chương đổi mới” đăng
trên báo công an :” chúng tôi rất ngạc
nhiên khi NXB Đà Nẵng và một số người lại đứng ra làm “bà đỡ” cho loại văn bậy
bạ, tục tĩu này được xuất bản.”, rồi Nguyễn Chí Hoan viết trên talawas :
“…trong tập “Bóng đè”,
lấy những chuyện tình dục tình yêu làm môi trường bàn chuyện thân phận đàn bà,
rồi từ đó phóng chiếu lên thân phận lịch sử nòi giống, tính cách và bản sắc văn hoá, thậm chí là mơ hồ một chút gì đó về hoà
hợp và hội nhập đương thời v.v... đều mới chỉ dừng ở mức độ có tham vọng luận
bàn. Chưa nói đến một năng lực tư duy hay sự hiểu biết cần thiết, chỉ cần nhìn
vào cấu tạo thô thiển của văn chương, sự sáo rỗng của một lối tu từ cũng đủ
thấy cái văn chương đó chỉ như một ảo ảnh. Theo lối dân gian, văn chương như
thế thì “Ốc không mang nổi mình ốc, mà đòi mang cọc cho rêu”.
Vậy sự thực “ Bóng đè “ là thế nào ?
(còn
tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét